NAVIGATION
HOME
PHỤNG VỤ
Hiến chế về Phụng vụ thánh (1963)
THÁNH NHẠC
Thông điệp "Kỷ luật về Thánh nhạc" (1955)
Huấn thị về Thánh nhạc và Phụng vụ (1958)
Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ (1967)
Những tham khảo về Thánh nhạc
CHIA SẺ
Ca đoàn, một nhân tố sống động
Về Nhạc Vào đời
Về chuyện dài Bộ Lễ
Cẩm nang Ca Trưởng
Kinh Vinh Danh của Bộ Lễ Seraphim I
CẨM NANG CA TRƯỞNG
(những thắc mắc thường gặp)

NỘI DUNG

I. Về các Văn kiện

1. Có những Văn kiện nào của Giáo Hội liên quan đến Thánh nhạc?
2. Có những Thông cáo và Văn kiện nào của Hội đồng Giám mục Việt Nam liên quan đến Thánh nhạc?


II. Về Thánh ca

1. Thánh ca nói chung gồm có mấy loại?
2. Thế nào là thánh ca Vào đời? Có được phép sử dụng thánh ca Vào đời trong Phụng vụ không?
3. Làm thế nào để có thể nhận diện một bài hát Vào đời?
4. Làm thế nào để phân biệt một bài Phụng ca hoặc một bài Thánh ca với một bài hát Vào đời?
5. Có được phép dùng những bài ca trong các CD nhạc Thánh ca để hát trong Phụng vụ không?
6. Thế nào là bản văn cố định?
7. Thế nào là bản văn được thích nghi?
8. Thế nào là bản văn được thay thế?
9. Bài ca được phép Chuẩn ấn nghĩa là gì?


III. Về Thánh lễ

1. Trong Thánh lễ nên hát những phần nào?
2. Những bài ca nào trong Thánh lễ nên cho Cộng đoàn tham gia một cách tích cực?
3. Thế nào là chọn bài hát đúng theo tiêu chuẩn của Thánh nhạc?
4. Bài Ca nhập lễ phải chọn làm sao?
5. Bài Thánh vịnh Ðáp ca phải chọn làm sao? Có thể thay thế bài Thánh vịnh Đáp ca bằng một bài hát nào khác không?
6. Ca tiếp liên là gì và hát vào lúc nào?
7. Alleluia nghĩa là gì? Trong mùa Phụng vụ nào không hát Alleluia?
8. Bài Ca tiến lễ phải chọn làm sao?
9. Bài Ca hiệp lễ phải chọn làm sao?
10. Thế nào là bài Ca suy niệm sau phần Hiệp lễ?
11. Im lặng thánh là gì? Trong thánh lễ, những lúc nào nên giữ im lặng thánh?
12. Ở phần Hiệp lễ trong thánh lễ Hôn phối, có nên hát những bài mang ý tưởng vinh danh, tri ân cảm tạ cha mẹ hoặc cầu nguyện cho họ không?
13. Ca đoàn nên rước lễ trước hay sau Cộng đoàn?
14. Bài Ca tạ lễ phải chọn làm sao?
15. Bộ lễ gồm những kinh nào? Có thể tổng hợp nhiều Bộ lễ lại với nhau thành một Bộ lễ để hát không?
16. Có thông cáo hoặc chỉ thị nào của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chính thức ngăn cấm việc sử dụng một vài Bộ lễ đang thịnh hành có bản văn không đúng với bản văn qui định không?
17. Kinh Vinh danh được dùng trong những Thánh lễ nào?
18. Có được phép hát kinh Vinh danh trong thánh lễ Hôn Phối không?
19. Rung chuông khi hát kinh Vinh danh trong những thánh lễ nào?
20. Kinh Tin kính được dùng trong những thánh lễ nào?
21. Có thể hát bài “Tôi tin kính” của Hoài Đức thay cho kinh Tin kính được không?
22. Lời Tung hô tưởng niệm trong Thánh lễ có mấy công thức?
23. Kinh lạy Chiên Thiên Chúa hát vào lúc nào?


IV. Về Ca đoàn

1. Vai trò và sứ mạng của Ca đoàn đối với Cộng đoàn trong việc ca hát như thế nào?
2. Có nên để một mình Ca đoàn phụ trách hát hết mọi bài ca trong Thánh lễ không?
3. Làm thế nào để Cộng đoàn tham dự một cách tích cực vào việc ca hát và để việc tập hát cho Cộng đoàn đạt được hiệu quả?
4. Vị trí nào trong nhà thờ là thích hợp nhất cho Ca đoàn?
5. Ngoài Thánh nhạc, Ca Đoàn có cần học hỏi thêm về Phụng vụ không?
6. Ca đoàn có cần trau giồi thêm về nhạc lý, xướng âm và thanh nhạc không?
7. Một ca viên lý tưởng cần phải có những khả năng và đức tính nào?


V. Về Nhạc cụ

1. Giáo Hội cho phép và cấm sử dụng những loại nhạc cụ nào trong Phụng vụ?
2. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho phép sử dụng những loại nhạc cụ nào trong Phụng vụ?
3. Có được phép độc tấu nhạc cụ trong thánh lễ không? Cách thức sử dụng nhạc cụ trong mùa Vọng và mùa Chay như thế nào?
4. Vai trò của nhạc cụ gồm những gì?
5. Có được phép sử dụng nhạc thu âm trước để phụ đệm cho Ca đoàn hay Cộng đoàn không?
6. Có nên dùng tiết điệu để phụ đệm cho các bài Thánh ca trong Phụng vụ không?



CẨM NANG CA TRƯỞNG

Những thắc mắc thường gặp



I. Về các Văn kiện

1. Có những Văn kiện nào của Giáo Hội liên quan đến Thánh nhạc?

Có những văn kiện tiêu biểu sau đây:
- Thông điệp “Annus qui” do Đức Bênêdictô XIV ban hành ngày 19/02/1749.
- Tự sắc “Tra le Sollecitudini” do Đức Piô X ban hành ngày 22/11/1903.
- Thông điệp “Divini Cultus” do Đức Piô XI ban hành ngày 20/12/1928.
- Thông điệp “Quy luật về Thánh nhạc” (Musicae sacrae disciplina) do Đức Piô XII ban hành ngày 25/12/1955.
- “Huấn thị về Thánh nhạc” (Instructio de musica sacra) do Thánh bộ Lễ nghi ban hành ngày 03/09/1958.
- “Hiến chế Phụng vụ” (Sacrosanctum Concilium), chương VI, do Công đồng Vaticanô II ban hành ngày 04/12/1963.
- “Huấn thị về âm nhạc trong phụng vụ” (Instructio de musica in sacra liturgia) do Thánh bộ Lễ nghi ban hành ngày 05/03/1967.
- Qui chế tổng quát Sách lễ Rôma do Đức Phaolô VI công bố ngày 06/04/1969, với ấn bản thứ ba do Đức Gioan Phaolô II phê chuẩn ngày 10/04/2000.

2. Có những Thông cáo và Văn kiện nào của Hội đồng Giám mục Việt Nam liên quan đến Thánh nhạc?

- Thông cáo số 1 của Hội đồng Giám mục Việt Nam “Về Thánh nhạc”, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, đặc trách Thánh nhạc, ký ban hành ngày 24/09/1994.
- Thông cáo số 2 của Hội đồng Giám mục Việt Nam “Góp ý về việc chuẩn nhận các bài thánh ca dùng trong Phụng vụ”, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, đặc trách Thánh nhạc, ký ban hành ngày 24/09/1994.
- Thông cáo số 3 của Hội đồng Giám mục Việt Nam “Hướng dẫn sáng tác và sử dụng các bài hát trong Thánh lễ”, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, đặc trách Thánh nhạc, ký ban hành ngày 24/09/1994.
- Thông báo Thánh nhạc của Ủy ban Thánh nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, do Lm. Rôcô Nguyễn Duy, Thư ký UBTN-HĐGMVN ký ban hành ngày 01/11/2016.
- Văn kiện Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc của Ủy ban Thánh nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, do Đức Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGMVN, ký ban hành ngày 28/04/2017.

II. Về Thánh ca

1. Thánh ca nói chung gồm có mấy loại?

Thánh ca nói chung gồm có ba loại: Phụng ca, Thánh ca và Giáo ca.
- Phụng ca là những bài hát dùng trong các thánh lễ và nghi thức Phụng vụ có lời ca là bản văn Phụng vụ, ví dụ như Ca nhập lễ, Thánh vịnh Đáp ca, Ca tiến lễ, Ca hiệp lễ, Bộ lễ, các bài Thánh thi, các Tiền xướng, v.v…
- Thánh ca là những bài hát có lời ca không phải là bản văn Phụng vụ, nhưng đã được Giáo quyền cho phép sử dụng trong các thánh lễ và nghi thức Phụng vụ, ví dụ như những bài hát thay thế Ca nhập lễ, Ca tiến lễ, Ca hiệp lễ, v.v…
- Giáo ca là những bài hát diễn tả các chân lý trong đạo hoặc mang tâm tình đạo được dùng ngoài thánh lễ và nghi thức Phụng vụ, trong các sinh hoạt tôn giáo, trong các lớp giáo lý hoặc trong các buổi tĩnh tâm, hội thảo, v.v…

2. Thế nào là thánh ca Vào đời? Có được phép sử dụng thánh ca Vào đời trong Phụng vụ không?

- Thánh ca Vào đời là những bài ca mang tâm tình đạo giáo hoặc là những bài ca lấy cảm hứng từ Thánh kinh, được sáng tác bằng những giai điệu và tiết tấu trẻ trung, có khi kích động, của nhạc Rock và nhạc Nam Mỹ.
- Vì mục đích của những tác giả khởi xướng dòng nhạc này vào mùa hè năm 1966 (gồm một nhóm các thầy thuộc Học viện Dòng Chúa Cứu Thế tại Đà Lạt) là để đưa đạo vào đời, giới thiệu Chúa đến với mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội đời thường, nên thánh ca Vào đời được xếp vào loại Giáo ca, chỉ nên được sử dụng ngoài Phụng vụ mà thôi. (Xem thêm “Nói với các bạn tôi về Nhạc Vào Đời”).

3. Làm thế nào để có thể nhận diện một bài hát Vào đời?

Một vài sắc thái đặc biệt của những bài ca Vào đời là:
- tiết điệu Twist, Rhumba, SlowRock, Tango... được ghi ở đầu bài hát;
- tính cách kịch trường, dùng nhiều quãng lớn liên tiếp (Alleluia Hát Lên Người Ơi) với nhịp phách bất thường, như đảo phách, nghịch phách (Người Gieo Giống, Xuất Hành) của giai điệu;
- lời ca mới lạ, nếu không là những chuyện kể từ Tin Mừng (Vào Đời, Người Gieo Giống... ) theo một lối diễn tả mới, một văn phong mới, thì là những tâm tình cầu nguyện qua những hình ảnh rất đời thường, đôi khi mang tính cách cá nhân (Sao Đêm, Tôi Tin, Làm Sao Dám Mơ... );
- giai điệu và tiết tấu của bài ca tạo sự thuận tiện cho ban nhạc với trống, keyboard, guitars, accordion, saxophone, trumpet... khi trình tấu.

4. Làm thế nào để phân biệt một bài Phụng ca hoặc một bài Thánh ca với một bài hát Vào đời?

Dựa trên những quy chế và huấn thị của Giáo Hội về Phụng vụ và Thánh nhạc, chúng ta có thể liệt kê ra một vài điểm dị biệt đưới đây:
- ý tưởng và lời ca của một bài Phụng ca hoặc một bài Thánh ca thường là bản văn Phụng vụ do Giáo Hội soạn thảo, hoặc được rút tỉa từ Thánh kinh, Thánh vịnh; còn ý tưởng và lời ca của một bài hát Vào đời thường là do cảm hứng hoặc tự sáng tạo;
- tâm tình thờ lạy, ngợi khen, cảm tạ và cầu xin của những bài Phụng ca và Thánh ca mang nhiều tính cách cộng đoàn hơn so với tính cách thiên về cá nhân ở những bài hát Vào đời;
- giai điệu và tiết tấu của những bài Phụng ca và Thánh ca có tính cách đơn sơ, bình dị, trang nghiêm và phù hợp với khả năng ca hát của cộng đoàn, khác với giai điệu và tiết tấu ở những bài hát Vào đời có tính cách cầu kỳ, sôi nổi, phóng khoáng và đôi khi chỉ thích hợp cho ca sĩ hoặc cho một nhóm ca viên có khả năng;
- một bài Phụng ca hoặc một bài Thánh ca luôn đòi buộc sự kiểm duyệt của đấng Bản quyền trước khi được phép in ấn, phổ biến rộng rãi và sử dụng trong Phụng vụ; nhưng một bài hát Vào đời chỉ sử dụng ngoài Phụng vụ thường không có sự đòi buộc này.

5. Có được phép dùng những bài ca trong các CD nhạc Thánh ca để hát trong Phụng vụ không?

- Được phép, nếu những bài ca này là những bài Phụng ca có lời ca là bản văn Phụng vụ, hoặc là những bài Thánh ca đã được Giáo quyền chuẩn ấn và cho phép sử dụng trong Phụng vụ.
- Không được phép, nếu những bài ca này là những bài Giáo ca, những bài ca Vào đời, hoặc là những bài Tâm tình ca chỉ thích hợp cho những sinh hoạt ngoài khung cảnh Phụng vụ.
Cũng cần lưu ý điều này là những bài Phụng ca và Thánh ca được trình bày trong các CD nhạc có thể có những sắc thái không hoàn toàn phù hợp với khung cảnh Phụng vụ, như lối phụ đệm “kích động” của ban nhạc hoặc như lối trình tấu nhiều “luyến láy” của một vài ca sĩ. Vì thế, khi áp dụng vào khung cảnh Phụng vụ, chúng ta cần biết thanh lọc, tu chỉnh lại, sao cho lối phụ đệm và trình tấu mang tính cách thánh thiện và trang nghiêm, phù hợp với khung cảnh Phụng vụ và tâm tình cầu nguyện hơn.

6. Thế nào là bản văn cố định?

Bản văn cố định là những bản văn buộc phải được giữ đúng nguyên bản đã được Hội Đồng Giám Mục chuẩn nhận và được Toà Thánh châu phê.
Các bản văn cố định trong Nghi thức Thánh lễ gồm có: các Lời cầu nguyện của chủ tế, Bộ lễ, Thánh vịnh Đáp Ca, các Lời tung hô, các Lời đối đáp giữa Linh mục hoặc Phó tế với cộng đoàn, kinh Tiền Tụng, kinh Nguyện Thánh Thể, kinh Lạy Cha.
Điều 3 trong “Huấn thị thứ ba nhằm áp dụng đúng Hiến chế Phụng vụ” do Thánh bộ Phụng tự ban hành ngày 05/09/1970 viết: “Các bản văn Phụng vụ do Giáo Hội soạn thảo cần phải được sử dụng một cách hết sức kính cẩn. Vì thế, không ai được tự ý huỷ bỏ, bày đặt thêm bớt hay thay đổi gì. Riêng đối với Nghi thức Thánh lễ, phải đặc biệt tôn trọng. Trong các bản dịch chính thức, tuyệt đối cấm không được thay đổi các công thức trong Nghi thức, dù lấy lý do phải thay đổi cho dễ làm bài hát trong thánh lễ” (Tài liệu Thánh Nhạc - 1994).

7. Thế nào là bản văn được thích nghi?

Bản văn được thích nghi là những bản văn có thể thay đổi hoặc sắp xếp lại một vài từ ngữ hoặc câu cú để tiện việc dệt nhạc, nhưng vẫn phải giữ đúng ý nghĩa của bản văn gốc in trong Sách lễ Rôma.
Các bản văn được thích nghi gồm có: Ca nhập lễ, Ca tiến lễ và Ca hiệp lễ.

8. Thế nào là bản văn được thay thế?

Bản văn được thay thế bao gồm các bài Ca nhập lễ và Ca hiệp lễ in trong Sách lễ Rôma. Có thể thay thế những bản văn gốc này bằng những nội dung khác, nếu ý nghĩa thực sự phù hợp với phần thánh lễ, với chủ đề ngày lễ hoặc với mùa Phụng vụ.
Riêng bản văn Thánh vịnh Đáp ca, vì thuộc thành phần Phụng vụ Lời Chúa nên không được thay thế bằng một bản văn không-phải-là-Thánh-kinh; nhưng có thể được thay thế bằng một trong các bản văn Thánh vịnh Đáp ca và Thánh vịnh mà Giáo Hội đã chọn cho từng mùa Phụng vụ hoặc cho từng loại thánh lễ (xem thêm chương III, 5 dưới đây).

9. Bài ca được phép Chuẩn ấn nghĩa là gì?

Một bài thánh ca, muốn được sử dụng trong Phụng vụ, cần phải có phép Chuẩn ấn của Ðức Giám Mục địa phương. Nếu là những cung hát dành cho Chủ tế hoặc các Tá viên, những cung hát này phải do Hội Ðồng Giám Mục của một quốc gia ban phép Chuẩn ấn.
Phép Chuẩn ấn (Imprimatur: cho phép in) là sự chuẩn nhận của Đức Giám Mục địa phương, sau khi đã cùng với Ban Kiểm duyệt của Giáo phận duyệt xét và xác nhận không có điều gì sai lầm hoặc nghịch với tín lý của Giáo Hội, cho phép một tài liệu hay một cuốn sách về Tín lý, về Luân lý, về Thần học, về Phụng vụ, về Thánh nhạc, v.v... được in ra và phổ biến rộng rãi, được dùng để giảng dạy hoặc được sử dụng trong Phụng vụ.
Tiến trình xin phép Chuẩn ấn như sau:
a) Tác phẩm xin phép Chuẩn ấn gồm hai bản sao trước hết được gởi đến Ban Kiểm duyệt của Giáo phận để các bộ phận chuyên môn duyệt xét và xác nhận Nihil obstat (không có gì ngăn trở).
b) Sau đó, Ban Kiểm duyệt sẽ đệ trình tác phẩm xin phép Chuẩn ấn lên Đức Giám Mục để châu phê Imprimatur (cho phép in).
Nếu tác giả của tác phẩm xin phép Chuẩn ấn là một Tu sĩ Dòng, trước khi gởi tác phẩm đến Ban Kiểm duyệt của Giáo phận, vị ấy có thể trình qua đấng Bề trên Dòng để được duyệt phê Imprimi potest (có thể in).
Trong tiến trình kiểm duyệt Nihil obstat -> Imprimatur hoặc Imprimi potest -> Nihil obstat -> Imprimatur, chữ ký Imprimatur của một Đức Giám Mục hay của Hội Đồng Giám Mục thực sự quan trọng và cần thiết để một tác phẩm được in ấn, được phổ biến, được dùng để giảng dạy hay được sử dụng trong Phụng vụ.

III. Về Thánh lễ

1. Trong Thánh lễ nên hát những phần nào?

Theo “Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma”, trong thánh lễ có cộng đoàn tham dự, nên hát những bài ca sau đây:
- Ca nhập lễ
- Bộ lễ (gồm kinh Thương xót, kinh Vinh danh, kinh Tin kính, kinh Thánh Thánh Thánh và kinh Lạy Chiên Thiên Chúa)
- Thánh vịnh Đáp ca và Alleluia hoặc Tung hô Tin Mừng.
- Ca tiếp liên (trong các lễ Phục Sinh, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ Mình Máu Chúa và lễ Đức Mẹ sầu bi)
- Ca tiến lễ
- Lời tung hô tưởng niệm
- Vinh tụng ca (Amen)
- Kinh lạy Cha
- Ca hiệp lễ
- Ca tạ lễ

2. Những bài ca nào trong Thánh lễ nên cho Cộng đoàn tham gia một cách tích cực?

- Thánh vịnh Ðáp ca, Alleluia hoặc Tung hô Tin Mừng
- Bộ lễ, Lời tung hô tưởng niệm, Vinh tụng ca, Kinh lạy Cha
- Ca nhập lễ
- Ca tạ lễ

3. Thế nào là chọn bài hát đúng theo tiêu chuẩn của Thánh nhạc?

Bài hát đúng theo tiêu chuẩn của Thánh nhạc là:
a) bài hát có lời ca là bản văn Phụng vụ được in trong sách “Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum) hoặc trong sách “Các bài ca tiến cấp đơn giản của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum simplex) hoặc trong sách Bài Đọc;
b) bài hát có ý nghĩa phù hợp với tác động Phụng vụ hoặc phần cử hành Phụng vụ;
c) bài hát có ý nghĩa phù hợp với chủ đề của ngày lễ hoặc với tâm tình của mùa Phụng vụ;
d) bài hát đã được phép Chuẩn ấn của Thẩm quyền địa phương.

4. Bài Ca nhập lễ phải chọn làm sao?

Có thể chọn:
a) ưu tiên cho bài hát có bản văn được in trong sách “Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum) hoặc trong sách “Các bài ca tiến cấp đơn giản của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum simplex);
b) hoặc một bài hát đã được Thẩm quyền phê chuẩn:
- có ý nghĩa phù hợp với tác động Phụng vụ (như rước Linh mục và các thừa tác viên tiến lên bàn thờ);
- hoặc có ý nghĩa phù hợp với chủ đề của ngày lễ (như lễ Chúa Kitô là Vua, lễ Mẹ vô nhiễm nguyên tội, v.v...);
- hoặc có tâm tình phù hợp với mùa Phụng vụ (như mùa Vọng, mùa Chay, v.v...).

5. Bài Thánh vịnh Ðáp ca phải chọn làm sao? Có thể thay thế bài Thánh vịnh Đáp ca bằng một bài hát nào khác không?

Có thể chọn:
a) bài hát có bản văn phù hợp với Thánh vịnh Đáp ca được chỉ định trong sách Bài Đọc (Lưu ý:mỗi bản văn Thánh vịnh đều liên quan trực tiếp đến các Bài Đọc, vì thế, cần phải lựa chọn đúng bản văn đã được chỉ định và không được sử dụng bài-hát-không-phải-là-bản-văn-Thánh-Kinh để thay thế Thánh vịnh Đáp ca);
b) bài hát có bản văn phù hợp với những Thánh vịnh Đáp ca đã được Giáo hội lựa chọn và cho phép sử dụng theo từng mùa Phụng vụ hoặc theo từng loại lễ dưới đây:
- Mùa Vọng: TV.24 (như CN 1 Vọng-C); TV.84 (như CN 2 Vọng-B);
- Mùa Giáng sinh: TV.97 (như lễ Giáng sinh-ban ngày);
- Tuần lễ Hiển linh: TV.71
- Mùa Chay: TV.50 (như thứ Tư lễ Tro); TV.90 (như CN 1 Chay-C); TV.129 (như CN 5 Chay-A);
- Tuần Thánh: TV.21 (như CN lễ Lá);
- Mùa Phục sinh: TV.117 (như CN Phục sinh); TV.65 (như CN 6 PS-A);
- Mùa Thường niên: TV.18B (như CN 3 TN-C); TV.26 (như CN 3 TN-A); TV.33 (như CN 19 TN-B); TV.62 (như CN 12 TN-C); TV.94 (như CN 4 TN-B); TV.99 (như CN 11 TN-A); TV.102 (như CN 7 TN-A); TV.144 (như CN 14 TN-A).
c) bài Ca tiến cấp (Graduale) in trong Sách lễ Rôma.

6. Ca tiếp liên là gì và hát vào lúc nào?

Hiểu một cách đơn giản, bài Ca tiếp liên là một thánh thi hoặc một vịnh ca được hát trước Alleluia và bài Tin Mừng. Bài thơ thường có nội dung phù hợp với ý nghĩa của ngày lễ.
Các lễ dưới đây có bài Ca tiếp liên:
- lễ Phục Sinh,
- lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống,
- lễ Mình Máu Thánh Chúa,
- lễ Đức Mẹ sầu bi (15/09),
- lễ Cầu hồn - An táng.
Hiện nay Giáo Hội chỉ buộc đọc hoặc hát Ca tiếp liên trong hai lễ Phục Sinh và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (trước khi hát Alleluia); trong lễ Mình Máu Thánh Chúa và lễ Ðức Mẹ sầu bi thì được tuỳ ý; còn Ca tiếp liên trong lễ Cầu hồn - An táng đã được loại bỏ.

7. Alleluia nghĩa là gì và cách thực hành ra sao? Trong mùa Phụng vụ nào không hát Alleluia?

- Alleluia là một từ ghép của Allelu- (hãy ngợi khen) và Ia (Thiên Chúa). Đây là lời tung hô cần được thể hiện bằng tiếng hát của cả Cộng đoàn, để chào đón Chúa sắp nói với mình trong Tin mừng, cũng như để tuyên xưng niềm tin của mình.
- Cách thực hành như sau: Ca xướng viên hoặc Ca đoàn xướng câu Alleluia trước, cả Cộng đoàn đứng hát lập lại, Ca xướng viên hoặc Ca đoàn hát câu Tung hô trước Tin mừng lấy ở sách Bài Đọc hoặc sách Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma (Graduale Romanum), sau đó cả cộng đoàn hát lập lại câu Alleluia.
- Trong mùa Chay không hát Alleluia, nhưng có thể dùng một trong hai câu dưới đây để hát trước và sau câu Tung hô: (a) Lạy Chúa Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, chúng con xin ngợi khen Ngài, hoặc (b) Lạy Chúa Kitô ngàn đời vinh hiển, xin chúc tụng và tôn vinh Ngài.
- Vì Alleluia và câu Tung hô trước Tin mừng là để hát, cho nên khi thánh lễ chỉ có một bài đọc trước bài Tin mừng (chẳng hạn thánh lễ ngày thường), nếu không hát, có thể bỏ cả Alleluia và câu Tung hô; hoặc chỉ cần hát bài Thánh vịnh Đáp ca có chữ “Alleluia” ngay trước bài Tin mừng.
- Dĩ nhiên, trong thánh lễ Chúa nhật và các lễ Trọng, khi có hai bài đọc trước bài Tin mừng thì phải hát đầy đủ Alleluia và câu Tung hô trước Tin mừng (hoặc câu Tung hô trước Tin mừng trong mùa Chay), không được bỏ.

8. Bài Ca tiến lễ phải chọn làm sao?

Cũng giống như bài Ca nhập lễ, có thể chọn:
a) ưu tiên cho bài hát có bản văn được in trong sách “Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum) hoặc trong sách “Các bài ca tiến cấp đơn giản của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum simplex);
b) hoặc một bài hát đã được Thẩm quyền phê chuẩn:
- có tâm tình chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa (như TV. 140);
- hoặc có ý nghĩa phù hợp với phần cử hành Phụng vụ (chuẩn bị các lễ vật như bánh, rượu, nước, chén thánh, v.v…);
- hoặc có ý nghĩa phù hợp với chủ đề của ngày lễ hay phù hợp với tâm tình của mùa Phụng vụ;
c) hoặc giữ thinh lặng hay dạo một khúc nhạc để giáo dân nâng tâm hồn lên cùng Chúa.

9. Bài Ca hiệp lễ phải chọn làm sao?

Có thể chọn:
a) ưu tiên cho bài hát có bản văn được in trong sách “Các bài ca tiến cấp của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum) hoặc trong sách “Các bài ca tiến cấp đơn giản của Phụng vụ Rôma” (Graduale Romanum simplex);
b) hoặc một bài hát đã được Thẩm quyền phê chuẩn:
- có ý nghĩa phù hợp với phần thánh lễ: kết hiệp với Chúa, ngợi khen và cám tạ ơn Người;
- hoặc biểu hiện tình bác ái huynh đệ giữa những người đang cùng chia sẻ một tấm bánh;
- hoặc có ý nghĩa phù hợp với chủ đề của ngày lễ hay phù hợp với tâm tình của mùa Phụng vụ;
c) hoặc hát Thánh vịnh 33 (Hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao... ).
Lưu ý: Không nên chọn những bài hát thuần túy ca ngợi Đức Mẹ và Chư thánh để hát thay thế Ca hiệp lễ.

10. Thế nào là bài Ca suy niệm sau phần Hiệp lễ?

Sau khi hoàn tất việc rước lễ, vị Chủ tế và Cộng đoàn có thể tuỳ nghi giữ im lặng trong một khoảng thời gian, hoặc có thể hát một bài Ca suy niệm là một Thánh thi, một Thánh vịnh, hay một bài ca mang tâm tình ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa.
Lưu ý: Nếu có ý định hát bài Ca suy niệm sau phần Hiệp lễ thì phải liệu kết thúc bài Ca hiệp lễ cho đúng lúc, nghĩa là vừa khi vị Chủ tế và các thừa tác viên Thánh Thể cho giáo dân rước lễ xong.

11. Im lặng thánh là gì? Trong thánh lễ, những lúc nào nên giữ im lặng thánh?

Im lặng thánh, một thành phần của việc cử hành thánh lễ, là khoảng thời gian ngắn dành để hồi tâm, suy niệm, ngợi khen và cầu nguyện.
Trong thánh lễ, cộng đoàn được mời gọi giữ im lặng:
- trong Nghi thức sám hối, sau lời mời cầu nguyện (để mọi người cùng hồi tâm lại);
- sau mỗi Bài đọc và sau bài giảng thuyết (để suy niệm về những điều vừa nghe);
- sau phần Hiệp lễ (để ngợi khen Chúa và cầu nguyện).

12. Ở phần Hiệp lễ trong thánh lễ Hôn phối, có nên hát những bài mang ý tưởng vinh danh, tri ân cảm tạ cha mẹ hoặc cầu nguyện cho họ không ?

Bài Ca hiệp lễ cần biểu hiện tâm tình kết hiệp với Chúa, ngợi khen và cám tạ ơn Người, hoặc nói lên tình bác ái huynh đệ giữa những người đang cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế, hát bài ca vinh danh, tri ân cảm tạ cha mẹ và cầu nguyện cho họ trong phần Hiệp lễ thì không thích hợp.
Cũng không nên dùng những bài ca loại này để hát thay thế bài Ca suy niệm sau phần Hiệp lễ vốn phải là một Thánh thi, một Thánh vịnh hay một bài ca ngợi khen Chúa.
(Khung cảnh thích hợp nhất cho những bài ca vinh danh, tri ân cảm tạ cha mẹ và cầu nguyện cho họ là những buổi lễ Gia tiên hoặc những giờ kinh nguyện trong gia đình).

13. Ca đoàn nên rước lễ trước hay sau Cộng đoàn?

Theo “Quy chế Sách lễ Rôma” (số 86: Đang khi vị tư tế rước lễ thì bắt đầu hát Ca hiệp lễ), Ca đoàn nên rước lễ sau khi giáo dân rước lễ xong. Như vậy, trong lúc Ca đoàn rước lễ, Cộng đoàn có thể giữ một khoảng im lặng thánh để suy niệm, ngợi khen và cầu nguyện, trước khi hát bài Ca suy niệm, nếu cần.

14. Bài Ca tạ lễ phải chọn làm sao?

Có thể chọn một bài hát đã được Thẩm quyền phê chuẩn:
- có ý nghĩa ra đi sống đức tin giữa đời, ra đi rao giảng Tin mừng;
- hoặc có ý nghĩa phù hợp với chủ đề của ngày lễ (như lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ kính Lòng Chúa thương xót, lễ Thánh nữ Monica, v.v...);
- hoặc có tâm tình phù hợp với mùa Phụng vụ;
- hoặc một bài hát về Thánh Tâm Chúa, về Ðức Mẹ, về Thánh Giuse... trong những tháng dành riêng để tôn kính các ngài.

15. Bộ lễ gồm những kinh nào? Có thể tổng hợp nhiều Bộ lễ lại với nhau thành một Bộ lễ để hát không?

Bộ lễ (dịch từ tiếng La-tinh “Missa”) là một tổng hợp các kinh Thương xót, kinh Vinh danh, kinh Tin kính, kinh Thánh Thánh Thánh và kinh Lạy Chiên Thiên Chúa.
Đúng như tên gọi của nó, Bộ lễ phải được sáng tác trong một tổng thể, với một bố cục, một cấu trúc đồng nhất, các phần đều phải liên quan và kết hợp chặt chẽ với nhau, từ nhạc đề, âm thể đến giai điệu, nhạc sắc, v.v... Mỗi phần tự nó không thể được tách rời để làm một toàn phẩm, nhưng tất cả phải được liên kết lại với nhau để cấu tạo nên một toàn phẩm (xem “Tự sắc Tra le Sollecitudini”, số 11a).
Vậy thì khi trình tấu, chúng ta cũng phải hát Bộ lễ trong một toàn phẩm, bộ nào ra bộ nấy, không nên pha trộn các Bộ lễ lại với nhau, cho dù những Bộ lễ ấy có cùng một âm thể, mang cùng một giai điệu, hay của cùng một tác giả.

16. Có thông cáo hoặc chỉ thị nào của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chính thức ngăn cấm việc sử dụng một vài Bộ lễ đang thịnh hành có bản văn không đúng với bản văn qui định không?

Không thấy hoặc chưa thấy có thông cáo hoặc chỉ thị nào của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề cập trực tiếp đến việc ngăn cấm một Bộ lễ nào đó, ngoại trừ trong Thông cáo số 3 “Hướng dẫn sáng tác và sử dụng các bài hát trong Thánh lễ”, khi nói về bản văn cố định, đề mục 3a có viết: “Với các bản văn thuộc nghi thức Thánh lễ như: các lời cầu nguyện của chủ tế, bộ lễ, các lời tung hô, các lời đối đáp giữa Linh mục hoặc Phó tế với cộng đồng, kinh Tiền tụng, kinh nguyện Thánh Thể, kinh Lạy Cha... phải theo sát bản văn đã được HĐGM chuẩn nhận và được Toà Thánh châu phê, in trong sách lễ Rôma: không được thay đổi vì bất cứ lý do gì” ; và trong Thông cáo số 2 “Góp ý về việc chuẩn nhận các bài thánh ca dùng trong Phụng vụ”, khi nói về bản văn Phụng vụ, đề mục 4a cũng đã có nhấn mạnh: “Trong Phụng vụ, nhất là trong thánh lễ, một số bản văn có tính cách cố định thì không ai được thay đổi vì bất cứ lý do gì, dù để dễ hát…”.
Như vậy, mặc dù không có lệnh cấm, chúng ta vẫn bắt buộc phải hiểu rằng những Bộ lễ có bản văn không đúng với bản văn qui định thì không được phép dùng trong Phụng vụ.

17. Kinh Vinh danh được dùng trong những Thánh lễ nào?

Kinh Vinh danh được hát hoặc đọc trong các thánh lễ Chúa nhật (ngoại trừ mùa Vọng và mùa Chay), trong các lễ Trọng, lễ Kính và trong các dịp cử hành riêng có tính cách khá long trọng (như lễ Cung hiến thánh đường, lễ Truyền chức Linh mục, v.v…).

18. Có được phép hát kinh Vinh danh trong thánh lễ Hôn Phối không?

Được phép! Theo sách Nghi thức cử hành Hôn Nhân, bản dịch Việt ngữ 2008 của Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, sau công thức đầu lễ, Linh mục chủ tế ngỏ đôi lời với những người sắp kết hôn, rồi bỏ qua hành động thống hối, ngài xướng kinh Vinh danh cho mọi người cùng hát.

19. Rung chuông khi hát kinh Vinh danh trong những thánh lễ nào?

Rung chuông khi hát kinh Vinh danh trong lễ Ðêm Giáng sinh, lễ Tiệc ly chiều thứ Năm tuần thánh và lễ Đêm vọng Phục Sinh.

20. Kinh Tin kính được dùng trong những thánh lễ nào?

Kinh Tin kính được hát hoặc đọc trong các thánh lễ Chúa nhật, trong các lễ Trọng và trong các dịp lễ khá long trọng (như lễ Cung hiến thánh đường).
Tuy nhiên, không hát hoặc không đọc kinh Tin kính trong Đêm vọng Phục Sinh và trong các ngày lễ hoặc dịp lễ buộc phải hát hoặc đọc kinh này, khi trong thánh lễ có ban Bí tích Rửa tội hoặc Bí tích Thêm sức, vì trong cả ba trường hợp đều đã có nghi thức tuyên xưng đức tin trước đó.

21. Có thể hát bài “Tôi tin kính” của Hoài Đức thay cho kinh Tin kính được không?

Không thấy có Huấn thị hoặc Thông cáo về Thánh nhạc nào của Hội đồng Giám mục Việt Nam đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, qua bản tin tháng 12/2006 (http://www.usccb.org/liturgy/innews/December2006.pdf), Uỷ ban Phụng vụ trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (HÐGMHK) cho biết: vào ngày 26/09/2006, trong thư thông báo cho Ðức cha William Skytad, chủ tịch HÐGMHK, về “Bản dịch mới của Nghi thức Thánh lễ bằng tiếng Việt” để xin ngài phổ biến rộng rãi đến cộng đồng tín hữu Việt Nam, Ðức cha Nguyễn Văn Hoà đã đồng thời nêu rõ ra kinh Tin kính của Hoài Ðức vốn còn thiếu sót, chỉ bao gồm có hai đặc tính của Giáo hội, và khuyên cộng đồng tín hữu Việt Nam không nên sử dụng bản kinh này nữa.

22. Lời Tung hô tưởng niệm trong Thánh lễ có mấy công thức?

Có ba công thức như sau:
a) Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến.
b) Lạy Chúa, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến.
c) Lạy Chúa cứu thế, Chúa đã dùng thánh giá và sự phục sinh của Chúa để giải thoát chúng con. Xin cứu độ chúng con.

23. Kinh lạy Chiên Thiên Chúa hát vào lúc nào?

Kinh lạy Chiên Thiên Chúa hát vào lúc vị Chủ tế bẻ bánh và bỏ một phần vào trong chén thánh. Kinh này có thể được lặp đi lặp lại cho tới khi vị Chủ tế hoàn tất việc bẻ bánh, và kết thúc bằng câu “Xin ban bỉnh an cho chúng con”.

IV. Về Ca đoàn

1. Vai trò và sứ mạng của Ca đoàn đối với Cộng đoàn trong việc ca hát như thế nào?

Là một thành phần được tuyển chọn giữa Cộng đoàn nhờ vào khả năng chuyên môn về âm nhạc, Ca đoàn đóng một vai trò nồng cốt làm một nhân tố, một chất xúc tác, có nhiệm vụ hỗ trợ, nâng đỡ tiếng hát của Cộng đoàn, đồng thời điều khiển, hướng dẫn và cổ vũ Cộng đoàn tham gia một cách tích cực vào việc ca hát trong Phụng vụ.

2. Có nên để một mình Ca đoàn phụ trách hát hết mọi bài ca trong Thánh lễ không?

Không! Lý do là vì Ca đoàn chỉ là một thành phần nhỏ của Cộng đoàn, mà các cử hành Phụng vụ lại luôn đòi hỏi tính cộng đoàn, nghĩa là tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi tham dự một cách tích cực, trọn vẹn và linh động vào việc cử hành Phụng vụ.
Trong Thông điệp “Đấng trung gian của Thiên Chúa” (Mediator Dei) ban hành ngày 20/11/1947, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã viết: “Tín hữu tham dự các cử hành Phụng vụ thánh không thể là những khán giả câm lặng và xa lạ… Họ phải cảm nhận một cách sâu xa nét thẩm mỹ của Phụng vụ: họ phải lần lượt, theo luật định, góp tiếng với Chủ tế và Ca đoàn…”.
Vì thế, nhất thiết phải để Cộng đoàn tham dự vào việc ca hát, đặc biệt là những phần của họ như Thánh vịnh Đáp ca, Alleluia, Bộ lễ, v.v… (xem thêm Chương III, 2 trên đây).

3. Làm thế nào để Cộng đoàn tham dự một cách tích cực vào việc ca hát và để việc tập hát cho Cộng đoàn đạt được hiệu quả?

- giáo huấn cho Cộng đoàn hiểu thấu được tầm quan trọng của Thánh nhạc và vai trò của họ trong Phụng vụ;
- cho Cộng đoàn thường xuyên tham gia vào việc ca hát, đặc biệt là những phần của họ;
- chuẩn bị đủ sách hát hoặc các tài liệu cần thiết;
- chọn những bài hát tâm tình, mang tính cộng đoàn, nhất là phải phù hợp với ý nghĩa Phụng vụ của ngày lễ;
- chọn những bài hát đơn giản, có một hoặc hai bè, với âm vực vừa phải, hạn hẹp trong một bát độ (đồ - đố) để mọi lứa tuổi đều có thể dễ dàng tham gia;
- người tập hát cho Cộng đoàn phải luôn luôn chuẩn xác khi hát mẫu, cũng như Ca đoàn cần phải tích cực dự phần vào việc tập hát để nâng đỡ tiếng hát của Cộng đoàn.

4. Vị trí nào trong nhà thờ là thích hợp nhất cho Ca đoàn?

Từ xưa nay, Giáo Hội vẫn không xác định một vị trí cố định cho Ca đoàn, mặc dù đa số các Ca đoàn thường được xếp chỗ trên “gác đàn” (tầng lầu ở phía cuối nhà thờ). Vị trí cách biệt với Cộng đoàn này xem ra không phù hợp với những chỉ dẫn ở số 23 của “Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ" (Instructio de Musica in Sacra Liturgia) do Thánh Bộ Nghi Lễ ban hành ngày 05/03/1967, như sau:
"Tùy cách xếp đặt ở mỗi nhà thờ, nhóm Ca viên sẽ được xếp chỗ thế nào:
- để cho bản tính của Ca đoàn được tỏ hiện, nghĩa là Ca đoàn là thành phần của cộng đoàn tín hữu và chu toàn một nhiệm vụ đặc biệt;
- để Ca viên có thể chu toàn cách tốt nhất chức năng phụng vụ của mình;
- để mỗi người trong nhóm có thể dễ dàng tham dự đầy đủ thánh lễ, nhờ việc rước lễ. Khi Ca đoàn gồm phái nữ thì phải xếp ngoài gian thánh."

Vì thế, một khoảng không gian giữa hai khu vực bàn thờ và cộng đoàn, hoặc ở một bên cánh, gần gian cung thánh và những hàng ghế đầu của giáo dân là những vị trí thích hợp nhất cho Ca đoàn.

5. Ngoài Thánh nhạc, Ca Đoàn có cần học hỏi thêm về Phụng vụ không?

Trước kia, trong Thông điệp “Qui luật về Thánh nhạc” (Musicae Sacrae Disciplina) ban hành ngày 25/12/1955, Đức Piô XII gọi “Thánh nhạc là trợ tá của Phụng vụ”. Nhưng gần đây, trong “Hiến chế về Phụng vụ thánh” (Hiến chế Sacrosanctum Concilium), số 112, Công đồng Vaticanô II đã thay đổi quan niệm về Thánh nhạc, cho rằng Thánh nhạc không chỉ làm cho các lễ nghi Phụng vụ thêm phần long trọng hoặc giúp cho các tín hữu thêm sốt sắng mà Thánh nhạc còn là chính Phụng vụ.
Vì thế, việc Ca đoàn tìm hiểu và học hỏi thêm về Thánh nhạc cũng như về Phụng vụ là điều đáng khuyến khích và cổ võ.
a) Kiến thức về Thánh nhạc và những qui luật của nghệ thuật thánh này giúp cho Ca đoàn biết lựa chọn, sử dụng và trình bày đúng đắn những bài thánh ca sao cho phù hợp với các cử hành Phụng vụ theo qui định của Giáo Hội.
b) Kiến thức về Phụng vụ giúp cho Ca đoàn hiểu biết một cách sâu xa và đầy đủ về ý nghĩa, tâm tình và mục đích của Phụng vụ, để họ không những khơi dậy được lòng sốt sắng và niềm tin nơi Cộng đoàn tín hữu mà chính bản thân họ còn được thôi thúc trở nên thánh thiện và gương mẫu hơn qua những bài ca nguyện họ trình tấu.

6. Ca đoàn có cần trau giồi thêm về nhạc lý, xướng âm và thanh nhạc không?

Một trong hai đặc tính của Thánh nhạc là “thể hiện một hình thức nghệ thuật cao” (Instructio De Musica In Sacra Liturgia, số 4a), vì thế, mọi thành viên của ca đoàn, từ ca trưởng đến ca viên, đều phải học hỏi, trau giồi và tập luyện không ngừng để nâng cao trình độ âm nhạc và để có thể giúp cộng đoàn một cách hữu hiệu hơn.
Lợi ích thiết thực của việc trau giồi và tập luyện gồm có:
a) Nhạc lý: giúp hiểu rõ bài hát, bản nhạc để trình bày một cách đúng đắn và có tâm tình.
b) Xướng âm: giúp trình bày một cách chính xác bốn đặc tính của âm thanh là cao độ, trường độ, cường độ và các sắc thái của âm thanh.
c) Thanh nhạc: giúp cho giọng hát được tròn trịa, đầy đặn, ngân vang và nhất là rõ lời, yếu tố quan trọng nhất của việc ca hát trong Phụng vụ.

7. Một ca viên lý tưởng cần phải có những khả năng và đức tính nào?

Là thành phần được tuyển chọn để chu toàn một nhiệm vụ đặc biệt và cao quí trong Phụng vụ, một ca viên lý tưởng cần phải đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của Thánh nhạc là “biểu lộ sự thánh thiện và thể hiện một hình thức nghệ thuật cao” .
- Muốn biểu lộ được sự thánh thiện, bản thân ca viên phải là một người đạo đức và gương mẫu, có tinh thần hy sinh, yêu mến và phục vụ tha nhân.
- Muốn thể hiện được hình thức nghệ thuật cao, bản thân ca viên phải có kiến thức âm nhạc, khả năng ca hát, và siêng năng trau giồi, tập luyện.

V. Về Nhạc cụ

1. Giáo Hội cho phép và cấm sử dụng những loại nhạc cụ nào trong Phụng vụ?

Tài liệu đề cập đến việc sử dụng nhạc cụ trong Phụng vụ một cách chi tiết nhất là “Tự sắc Tra le sollecitudini” của ĐGH Piô X ban hành năm 1903 (số 19 và 20), trong đó Giáo Hội:
- Cho phép và đặc biệt khuyến khích sử dụng đại phong cầm (đàn ống: pipe organ).
- Cho phép sử dụng với số lượng hạn chế trong một số trường hợp đặc biệt với sự chấp thuận của Thẩm quyền địa phương các loại phong cầm và các nhạc cụ nhỏ chơi bằng vĩ như vĩ cầm (violin).
- Cấm sử dụng dương cầm (piano) và những nhạc cụ gây ồn ào huyên náo khác như guitars, trống, chũm choẹ (cymbals), trống lục lạc (tambourines), chuông.
- Cấm sử dụng ban nhạc, các nhạc cụ chơi tự động và nhạc thu âm.
Tuy nhiên gần đây hơn, trong “Hiến chế Phụng vụ” của Công đồng Vaticanô II, số 120 (ban hành ngày 04/12/1963) và trong “Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ” của Thánh bộ Lễ nghi, các số 61-67 (ban hành ngày 05/03/1967), bên cạnh việc tiếp tục đề cao đại phong cầm, Giáo Hội để các Thẩm quyền địa phương tuỳ nghi phán đoán và phê chuẩn những nhạc cụ nào khác được phép sử dụng, miễn là các nhạc cụ này có thể phục vụ một cách hữu hiệu cho việc cử hành Phụng vụ, thích hợp với sự trang nghiêm của thánh đường và thực sự giúp cho Cộng đoàn được sốt sắng hơn.

2. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho phép sử dụng những loại nhạc cụ nào trong Phụng vụ?

Trong “Thông cáo số 1 của HĐGM Việt Nam về Thánh nhạc” do Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà ký ban hành vào ngày 24/09/1994, HĐGM Việt Nam cổ vũ việc sử dụng đại phong cầm trong Phụng vụ và “trong khi chờ đợi những quy định cụ thể” , cho phép sử dụng những nhạc cụ khác để nâng cao tiếng hát.
Bản Thông cáo không ngăn cấm một nhạc cụ nào, kể cả piano, keyboard, guitars, dàn trống, dàn kèn, dàn nhạc hoà tấu..., mà chỉ lưu ý không nên sử dụng những kỹ thuật không phù hợp với khung cảnh Phụng vụ dưới đây:
- không đệm át tiếng hát;
- không vuốt tay trên phím đàn piano hoặc keyboard;
- không dùng những nút “điệu” tự động;
- không dùng những âm thanh xa lạ với khung cảnh thờ phượng;
- không chơi các điệu nhạc Jazz;
- và không hoà tấu các bản nhạc đời, nhạc thời trang.

3. Có được phép độc tấu nhạc cụ trong thánh lễ không? Cách thức sử dụng nhạc cụ trong mùa Vọng và mùa Chay như thế nào?

- Theo “Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ” của Thánh bộ Lễ nghi, các số 64-65 (05/03/1967), trong thánh lễ, được phép độc tấu đại phong cầm hoặc một nhạc cụ nào khác đã được chính thức thừa nhận trước khi vị Chủ tế đến bàn thờ, lúc dâng lễ vật, trong khi rước lễ và lúc cuối lễ khi ra về. Tuy nhiên, không được phép độc tấu nhạc cụ trong mùa Vọng, mùa Chay, trong tuần Tam nhật Vượt qua và trong nghi thức An táng hoặc trong thánh lễ An táng.
- Theo Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 313, trong mùa Vọng được phép sử dụng đại phong cầm và các nhạc cụ khác một cách vừa phải, sao cho phù hợp với đặc tính của mùa này, nhưng đừng đi trước niềm vui trọn vẹn của lễ Giáng Sinh. Trong mùa Chay, chỉ sử dụng đại phong cầm và các nhạc cụ khác để trợ giúp tiếng hát mà thôi, ngoại trừ Chúa Nhật Laetare (CN IV mùa Chay), các lễ trọng và lễ kính. Như vậy, trong mùa Vọng vẫn có thể độc tấu nhạc cụ một cách hạn chế, nhưng trong mùa Chay thì tuyệt đối cấm.

4. Vai trò của nhạc cụ gồm những gì?

Nhạc cụ độc tấu hoặc phụ đệm cho tiếng hát làm tăng thêm sự trang trọng và vẻ đẹp của Phụng vụ, đồng thời giúp cho Cộng đoàn tham dự phụng vụ được sốt sắng, thánh thiện và linh động hơn.
Tuy nhiên, khi nhạc cụ được trình tấu quá ồn ào, lấn át tiếng hát và làm cho bản văn Phụng vụ trở nên khó hiểu, thì việc sử dụng nhạc cụ một cách không xứng hợp này đã làm mất đi vẻ đẹp của Phụng vụ và đã phá vỡ bầu khí cầu nguyện của Cộng đoàn.

5. Có được phép sử dụng nhạc thu âm trước để phụ đệm cho Ca đoàn hay Cộng đoàn không?

Tinh thần phụng vụ đòi buộc sự tham gia tích cực của một con người trọn vẹn, cả thể xác lẫn tâm tư. Vì thế, tiếng hát sống động của các tín hữu, cho dù chưa được điêu luyện, vẫn luôn có giá trị trước mặt Chúa hơn là những thứ máy móc tự động. Giáo Hội xưa nay vẫn không cho phép sử dụng các nhạc cụ và các máy tự động, như trong “Huấn thị về Thánh nhạc” ban hành ngày 03/09/1958, số 71, Thánh bộ Lễ nghi đã khuyến cáo: “Các nhạc cụ và các máy tự động như đại phong cầm tự động, máy ghi âm, máy thu thanh, máy quay đĩa hát và các loại tương tự đều không được phép dùng trong các cử hành Phụng vụ và các việc đạo đức, dù diễn ra ở ngoài hay trong nhà thờ, kể cả việc sử dụng để truyền thông những lễ nghi hay âm nhạc, hoặc chỉ để nâng đỡ hay yểm trợ tiếng hát của Ca đoàn hoặc Cộng đoàn” .

6. Có nên dùng tiết điệu để phụ đệm cho các bài Thánh ca trong Phụng vụ không?

Không nên dùng tiết điệu để phụ đệm cho các bài hát trong Phụng vụ.
Không nói đến vấn đề kỹ thuật vốn đòi buộc các ca viên phải thực sự vững vàng về nhịp phách mới có thể hát theo tiết điệu của nhạc cụ, việc sử dụng tiết điệu để phụ đệm cho các bài Thánh ca làm cho tập thể Ca đoàn dễ trở nên như một thứ máy móc, hát xướng không có hồn, không có tình cảm, và như thế không biểu hiện được tâm tình cầu nguyện, có khi còn gây thêm lo ra, chia trí.

Ngày lễ hai Thánh Phêrô và Phaolô 2007
(có cập nhật và sửa đổi)
Đỗ Vy Hạ